Đại học Hoa Sen – HSU

Bí mật từ “cuộc cạnh tranh chất xám vĩ đại”

Khắp nơi, các chính phủ đều đầu tư những số tiền khổng lồ nâng cấp các đại học thành những thể chế học thuật ‘đẳng cấp thế giới’: từ các quốc gia châu Âu, cái nôi của đại học, như Đức, Pháp; đến các quốc gia mới nổi như A-rập Saudi, Trung Quốc; từ châu Á đến châu Phi, châu Mỹ.

Bản đồ đại học và khoa học công nghệ thế giới từng bước được vẽ tiếp

Tác giả Ben WildavskyCác đại học đẳng cấp thế giới có nhiệm vụ vừa đào tạo tinh hoa, tránh thất thoát chất xám, vừa thu hút chất xám. Nhiều quốc gia đã bị thất thoát chất xám, brain drain, kể cả những nước phát triển, nhưng họ cố gắng bù đắp lại bằng cách thu hút chất xám, brain gain, hay bằng cách ‘đảo ngược brain drain’ với những chiêu thức thu hút hấp dẫn. A-rập Saudi cũng tham vọng trở thành quốc gia có đại học đẳng cấp thế giới bằng việc đầu tư 10 tỉ đô la Mỹ vào đề án khổng lồ KAUST (cái tên na ná KAIST, Viện khoa học khoa học công nghệ tiên tiến của Hàn Quốc), đại học khoa học -công nghệ Vua Abdullah, để đưa nền học thuật trở lại thời đại vàng son Hồi giáo, và để thu hút chất xám làm ‘xanh tươi’ đất nước sa mạc và cho cả vùng Ả rập rộng lớn. Số tiền này mới chỉ là vốn khởi động; trong khi số vốn đầu tư được chờ đợi lên đến con số 25 tỉ đô la Mỹ, chỉ đứng thứ hai sau Harvard. Vua Abdullah cũng cho phép KAUST không chịu sự quản lý của Bộ Giáo dục, do bộ này nổi tiếng quan liêu. Trung Quốc là một ‘tay chơi’ đầy tham vọng khác, từ thập niên 90 đã đầu tư nhiều chục tỉ đô la Mỹ để nâng cấp một trăm trường đại học và tập trung tạo ra chín trường đẳng cấp quốc tế, tập hợp dưới cái tên C9 (Phúc Đán, Nam Kinh, học viện Công nghệ Cáp Nhĩ Tân, Bắc Kinh, Giao thông Thượng Hải, Thanh Hoa, đại học Khoa học Công nghệ An Huy, Giao thông Tây An, Chiết Giang). Ấn Độ đang nỗ lực nhân rộng mô hình IIT, Indian Institute of Technology, Học viện công nghệ Ấn Độ, nơi ươm tài năng Ấn nổi tiếng và được thành lập từ những thập niên 50 lúc quốc gia giành lại độc lập. ITT là niềm tự hào dân tộc.

Các công ty toàn cầu như Boston Consulting và McKinsey hằng năm đến để đón bắt các tài năng giỏi, sáng chói nhất của Ấn Độ. Nhưng Ấn Độ đã không làm những cuộc bứt phá, và hiện nay, tuy đi trước rất lâu, nhưng bị coi là tụt lại phía sau Trung Quốc. Đức, Pháp cũng bỏ ra hàng tỉ euro để thiết lập những đại học trác việt nhằm thu hút tinh hoa thế giới và chen chân lên đầu các bảng xếp hạng toàn cầu.

Hai quốc gia châu Á có diện tích và số dân khiêm tốn nhưng có những nỗ lực phi thường trong giáo dục đại học và nghiên cứu; và họ đã thành công xuất sắc: Hàn Quốc và Singapore. Mục đích chung của họ là nâng cao nghiên cứu thành những trung tâm khoa học công nghệ trác việt để có sức cạnh tranh thế giới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ chân sinh viên, và thu hút chất xám quốc tế. Tiếng Anh trở thành ngôn ngữ bắt buộc chung trong thế giới hàn lâm và kinh doanh. Họ xây dựng trên các cơ sở hợp tác chiến lược với các đại học nước ngoài, phần lớn với Hoa Kỳ, và thuê các nhà khoa học, quản lý hàng đầu.

Năm 2008, Hàn Quốc đưa ra chương trình các đại học đẳng cấp thế giới với quỹ 800 triệu đô la Mỹ cho 5 năm nhằm nhập khẩu các giáo sư nước ngoài đến giảng dạy và nghiên cứu, thường là bán thời gian. 1.000 nhà khoa học đã nộp đơn trong mười tháng đầu, trong đó 40% đến từ Hoa Kỳ, có cả nhiều nhà khoa học đoạt giải Nobel. Hàn Quốc hy vọng những nhà khoa học này sẽ xây dựng các chương trình nghiên cứu chuyên ngành, hoặc các ngành khoa học mũi nhọn mới. Singapore là quốc gia hợp tác có lẽ mạnh mẽ nhất với các đại học hàng đầu Hoa Kỳ. Họ đã nhắm mục tiêu đem mười đại học quốc tế vào, và đã thành công với sáu đại học. Đặc biệt, năm 2007, họ đã đưa được MIT vào trung tâm nghiên cứu tại khuôn viên nghiên cứu quốc gia CREATE (Campus for Research Excellence and Technological Enterprise). Năm 2007, họ cũng thành lập Singapore International Graduate Award – SINGA, một loại học bổng sau tiến sĩ dành cho sinh viên ngoại quốc muốn tiếp tục nghiên cứu tại hai đại học NUS và NTU. Mỗi năm có khoảng 240 học bổng SINGA được cấp, với những tiêu chuẩn chọn lọc chặt chẽ. Tuy chương trình kết nối với các đại học hàng đầu nước ngoài không phải lúc nào cũng thành công, một số đại học bỏ cuộc (Warwick, Johns Hopkins, New South Wales), nhưng nói chung Singapore đã rất thành công trong nỗ lực trở thành một powerhouse của tri thức toàn cầu.

Thế giới bước vào thời đại toàn cầu hoá tri thức và giáo dục
Môi trường văn hoá đại học thế giới ngày càng gần gũi nhau: dân chủ, văn minh, hiện đại, trọng đãi tài năng, tự quản, tự do hàn lâm, học thuật, đó là nền tảng các giá trị phổ quát. Các sinh viên tài năng của các nước đang phát triển chỉ mơ “nhập học vào Harvard sẽ thay đổi đời tôi”. Sinh viên ngày càng sẵn sàng đi xa cha mẹ sớm hơn, có tính mạo hiểm hơn, và các bậc cha mẹ cũng khuyến khích điều đó. Con người có thể tìm việc bất cứ nơi đâu, miễn cạnh tranh thắng lợi. “Điều quan trọng không phải là bạn làm gì và sống ở đâu, nhưng là bạn biết gì”, như Tổng thống Obama nói; và một học sinh, sinh viên ở Dayton không phải chỉ cạnh tranh với đồng bạn ở Detroit, Chicago hay Los Angeles, mà còn phải cạnh tranh với các trang lứa ở Bắc Kinh hay Delhi.

Vốn nhân lực của một quốc gia là phần chủ yếu nhất tạo nên sự phồn vinh của các quốc gia. Thế kỷ 20 là thế kỷ của vốn nhân lực mà Hoa Kỳ là quốc gia dẫn đầu. Con đường đi tới thành công cho quốc gia và cá nhân cuối cùng chính là sự đầu tư vào vốn nhân lực. Một cộng đồng được giáo dục có thể chưa chắc bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và sự kết nạp vào ‘câu lạc bộ hội tụ’ (convergence club) của các quốc gia phát triển. Nhưng điều ngược lại chắc chắn đúng: Trình độ giáo dục thấp ngăn cản một quốc gia tiến tới biên giới công nghệ và hưởng lợi đầy đủ từ nền kinh tế toàn cầu (C.Goldin và L.Katz). Tri thức, và tài năng là những ‘hàng hoá’ không thể giam hãm hay đóng kín mà không gây thiệt hại cho chính mình. Phải làm sao để có sự trao đổi nhiều hơn, có nhiều ‘hàng hoá’ hơn.

Văn hoá được toàn cầu hoá. Chủ tịch Richard Levin của Đại học Yale là người chủ trương mạnh mẽ nhất phát triển đại học ra ngoài biên giới. “Chúng tôi muốn đào tạo sinh viên thành những nhà lãnh đạo của thế kỷ 21, và sinh viên không thể là những người ‘mù chữ văn hoá xuyên biên giới’”, Levin nói.

Cuộc “di dân”
Học giả và sinh viên từ quốc gia này sang quốc gia khác đã bắt đầu từ thế kỷ 12 lúc các đại học đầu tiên châu Âu, Bologna, Paris, Oxford được thành lập vào lúc châu Âu bắt đầu ra khỏi đêm dài của thời kỳ đen tối. Đó là các đại học tiền thân của đại học hôm nay. Cuộc di dân diễn ra không ngừng từ đó. Xã hội ngày càng phát triển thì tri thức ngày càng được quý trọng.

Đại học vì lợi nhuận không tạo ra tinh hoa, không làm nghiên cứu. Họ chỉ muốn kinh doanh ở lỗ hổng thị trường giáo dục, trong phân khúc riêng, nơi mọi người có nhu cầu lấy mảnh bằng để cải thiện thu nhập tương lai.

Đầu thế kỷ 19, với sự ra đời của đại học Humboldt tại Berlin như mô hình đại học nghiên cứu, thống nhất nghiên cứu và giảng dạy, có nhiều tự do hàn lâm, lấy khoa học và học thuật làm trọng tâm đào tạo, thì nền đại học có sự phát triển vượt bậc hơn tất cả thời đại nào trước đó. Đại học trở thành các trung tâm văn hoá. Nghiên cứu trở thành phẩm chất, và tiêu chuẩn đo lường cho sự nghiệp đại học. Tinh thần khoa học lan toả vào tất cả các ngành học, kể cả khoa học nhân văn, khoa học thực nghiệm, và trở thành tiêu chuẩn đo lường chất lượng. Đại học Đức đã góp phần vào cuộc công nghiệp hoá thành công của Đức, giúp nước Đức lạc hậu đầu thế kỷ 19 vươn lên ngang bằng các cường quốc Anh, Pháp vào cuối thế kỷ 19. Vào hậu bán thế kỷ 19, đại học Đức đã ảnh hưởng lên toàn thế giới: châu Âu, Anh, Hoa Kỳ, Nhật Bản và cả Trung Quốc. Đức đã trở thành ‘thánh địa’ để sinh viên và nhà giáo dục đại học thế giới hành hương. Người ta nói đến “bá quyền khoa học Đức” (german scientific hegemony). Trong vòng một trăm năm đại học Đức đã giữ vững ngọn đuốc trí tuệ sáng chói của thế giới. Thế kỷ 19, kéo dài đến đầu thế kỷ 20, có thể nói là thế kỷ của đại học Đức.

Thế chiến thứ II nổ ra, chủ nghĩa quốc xã của Hitler và những kẻ cuồng tín đã phá tan nền đại học đỉnh cao đó của nhân loại, gây ra một cuộc di tản khổng lồ của các nhà khoa học hàng đầu lục địa châu Âu qua Hoa Kỳ, trong đó Einstein là biểu tượng. Sau thế chiến thứ II, Hoa Kỳ với tiềm năng ưu việt của mình, trong vòng vài thập kỷ tiến lên phát triển đại học thành ngọn đuốc trí tuệ rực rỡ nhất thế giới, kéo dài đến hôm nay. Chưa bao giờ đại học có một cuộc phát triển vũ bão như trong giai đoạn sau thế chiến. Nó cũng gắn liền với giai đoạn phát triển kinh tế, công nghệ vũ bão thời hậu chiến và chiến tranh lạnh. Tri thức giờ đây là “khu vực đầu tàu” của tăng trưởng kinh tế!
“Những gì mà ngành đường sắt đã làm được cho nửa sau của thế kỷ qua (19) và ngành công nghiệp ôtô cho nửa đầu thế kỷ này (20) thì ngành công nghiệp tri thức có thể làm được cho nửa sau thế kỷ này: nghĩa là nó phục vụ cho sự tăng trưởng quốc gia như tâm điểm” (Clark Kerr). Hoa Kỳ đã đặt đúng vị trí mô hình đại học Đức trong context của mình: là khoa học, nhân văn, nghiên cứu, đào tạo và phục vụ cộng đồng. Đặc tính đại học Hoa Kỳ là dựa trên tính ‘mô-đun’ cho phép thêm bớt bất kỳ, cho phép dạy và nghiên cứu tất cả các môn, và ở mọi trình độ. Tính mô-đun với một số lượng lớn các môn chọn cho phép thầy và trò thực hiện các nguyên lý ‘tự do dạy’, Lehrfreiheit, và ‘tự do học’, Lernfreiheit, của Humboldt. Có thể nói, Đại học Hoa Kỳ là Đại học Humboldt mở rộng. Thế kỷ 20 là thế kỷ của đại học Hoa Kỳ. Đại học phát triển thành multiversity, đa đại học, và cụm đại học. Đại học Hoa Kỳ trở thành mô hình mà các quốc gia khác noi theo, cũng như Hoa Kỳ đã từng noi theo mô hình đại học Đức thế kỷ 19.

Năm 1987, Henry Rosovsky, cựu chủ nhiệm khoa của khoa Arts and Sciences ở Harvard, đã viết một cách hãnh diện: “Trong những ngày này, khi các đối thủ kinh tế nước ngoài dường như đang qua mặt chúng ta, chúng ta cần tái khẳng định rằng có một ngành công nghiệp sống còn mà ở đó Hoa Kỳ át hẳn thế giới không thể tranh cãi được: giáo dục đại học. Khoảng từ hai phần ba đến ba phần tư đại học tốt nhất của thế giới đều nằm tại Hoa Kỳ. Nhiều nhà phê bình nền giáo dục đại học ở Mỹ đã quên đi sự thật này”.

Ngành kinh doanh màu mỡ

World Bank ước tính một doanh thu 400 tỉ đô la Mỹ năm dành cho khu vực tư nhân. Sự hấp dẫn đó đã làm hình thành một chuỗi các đại học vì-lợi nhuận ngược với truyền thống đại học-phi lợi nhuận, đặc biệt tại Hoa Kỳ là nơi có nhiều đại học tư phi-lợi nhuận nổi tiếng và mẫu mực thế giới. Loại đại học này tăng trưởng mạnh mẽ tại châu Á và châu Mỹ La tinh, nơi hệ thống đại học công không theo kịp sự tăng trưởng nhanh của sinh viên. Nếu năm 2001 thế giới có 90 triệu sinh viên mới thì hai năm sau con số này đã vượt 100 triệu (TQ chiếm tỉ lệ lớn). Và năm 2006 nó lên đến 115 triệu. Sự phồn vinh của giai cấp trung lưu là lý do của sự tăng trưởng. Một chuyên gia giáo dục của công ty tài chánh IFC của Ngân hàng thế giới ước tính tại 8 quốc gia có dân số cao nhất, số sinh viên ghi danh từ 1991 đến 2001 đã tăng lên 260%, phần lớn sự tăng trưởng này hấp thu vào khu vực tư.

cuộc cạnh tranh chất xám vĩ đại

Các đại học vì-lợi nhuận hay đại học ảo đang là vấn đề tranh luận lớn. Một mặt các đại học đó vừa giải phóng các đại học tinh hoa, giảm áp lực, đồng thời cũng ‘đe doạ sự tồn tại của đại học nghiên cứu-tập trung’. Đại học vì-lợi nhuận có là đối trọng của các đại học tinh hoa? Không. Đó không phải là mục đích của họ. Họ không tạo ra tinh hoa, không làm nghiên cứu, không xây dựng ‘tháp chuông trác việt’. Họ chỉ muốn kinh doanh ở lỗ hổng thị trường giáo dục, trong phân khúc riêng, nơi mọi người có nhu cầu lấy mảnh bằng để cải thiện thu nhập tương lai, và cũng đáp ứng cho nhu cầu xã hội địa phương hay khu vực. Họ tạo ra những người có nghề nghiệp, có một số vốn tri thức, và kỹ năng nhất định cần thiết cho cuộc sống. Trong chừng mực nào đó, các công ty giáo dục vì-lợi nhuận có đóng góp nhất định mà các đại học công và đại học phi-lợi nhuận không lấp được. Chất lượng là vấn đề lớn đang tranh luận, và làm sao được bảo đảm tốt. Sự giám sát từ phía nhà nước có thể hữu ích, ít nhất là để loại bỏ các tổ chức kinh doanh ‘ăn xổi ở thì’. Nhưng sự can thiệp từ phía nhà nước cũng có thể đặt ra nhiều vấn đề khác.

Đại học Việt Nam chưa được đặt vào đúng trung tâm điểm sinh động của hoạt động quốc gia. Đại học quốc tế được trao sứ mệnh tạo ra sức mạnh tinh thần và vật chất cho xã hội, và là biểu tượng tinh hoa của quốc gia, tạo kỳ vọng cho cá nhân và xã hội, hấp thu và chuyển hoá lực lượng lao động trẻ cho cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hay cạnh tranh kinh tế, đào tạo tinh hoa và đem lại những giá trị mới cho cuộc sống, đem các thành phần xã hội lại gần gũi nhau, và mở rộng dân chủ cho quốc gia. Đại học Việt Nam chưa làm được những việc ấy.

Cái còn lại là văn hóa
Làn sóng toàn cầu hoá giáo dục đại học ngày càng áp sát Việt Nam, muốn hay không muốn. Ngày 11.4.2011, thủ tướng Lý Hiển Long, cùng với chủ tịch Đại học Yale, Richard Levin, chính thức làm lễ phát động xây dựng Yale-NUS College Singapore cho chương trình cử nhân 4 năm, nhằm góp phần đào tạo một giai tầng lãnh đạo mới của Singapore, với một chương trình giáo dục nhân văn kết hợp văn hoá Đông Tây. Nếu trước đây Lý Quang Diệu đã “tây hoá” môi trường sống và kinh doanh của Singapore nhằm thu hút phương Tây đến làm ăn, thì nay dưới thời thủ tướng Lý Hiển Long, Singapore sẽ được nâng cấp lên về mặt văn hoá, chuẩn bị cho chất lượng lãnh đạo với tri thức về hai nền văn hoá Đông – Tây. Họ sẽ là một típ người mới của Singapore. Một thử nghiệm hết sức thú vị. Giáo dục cử nhân có lẽ chỉ là giai đoạn một. Yale-NUS có thể có tham vọng đào tạo các lãnh đạo quốc gia như Yale đã và đang làm, đào tạo các tổng thống, thủ tướng, nhà kinh doanh, chính trị gia, học giả…

Văn hoá đã trở thành yếu tố ngày càng quan trọng trong thế giới toàn cầu hoá. Samuel Huntington cho rằng thế giới đang bước vào giai đoạn của sự “xung đột văn hoá” trong đó con người được đặc trưng không phải bởi ý thức hệ, mà bởi văn hóa với sức mạnh (hay nhược điểm của nó). Không hẳn xung đột. Nhưng văn hoá sẽ có giá trị ngày càng trội bật. Sự toàn cầu hoá kinh tế và sự sống còn buộc các dân tộc phải xem xét lại toàn bộ văn hoá của mình, cần tái diễn giải những tư tưởng tiềm tàng trong văn hoá, của Khổng Tử, Lão Tử, Phật giáo,.., loại bỏ những cách nhìn lỗi thời gây cản trở và tăng cường các ý tưởng tích cực, phù hợp với sự đòi hỏi của phát triển xã hội…

Cuộc cạnh tranh chất xám vĩ đại là quyển sách gối đầu giường cho những ai muốn có cánh cửa sổ nhìn ra một cuộc chuyển động thế giới đang diễn ra mạnh mẽ và sẽ ảnh hưởng lên mọi quốc gia, từ những quốc gia phát triển, mới được công nghiệp hoá, đến các quốc gia còn đang trên đường công nghiệp hóa, từ sinh viên đến các bậc phụ huynh, đến các nhà làm chính sách giáo dục. Quyển sách là một ‘kho tàng tri thức’ được cập nhật mới nhất, qui mô, có lý luận phân tích và đúc kết thành nhận thức. Ai muốn xây dựng đại học hiện đại, đại học đẳng cấp quốc tế, ai muốn nhìn vào chiều sâu của lịch sử, sứ mạng của đại học, những vấn đề đại học phải đối mặt tương lai, quan trọng hơn, ai muốn có tầm nhìn cho nền đại học tương lai của quốc gia mình, đều không nên bỏ qua quyển sách này.

Theo TS Nguyễn Xuân Xanh

(Báo Sài gòn tiếp thị)

 

Facebook Youtube Tiktok Zalo