Đại học Hoa Sen

Quyền Con Người và Quyền của Phụ Nữ

Tác giả: Doãn Thị Ngọc – Trường Đại Học Hoa Sen và Đỗ Hồng Quân – Trường Đại Học Mở TPHCM

Nguồn: www.openglobalrights.org

Quyền con người là một nội dung lớn của thế giới ngày nay. Khát vọng bảo vệ nhân phẩm của tất cả con người là cốt lõi của khái niệm quyền con người. Để thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, mỗi quốc gia cần phải thường xuyên chú trọng giáo dục quyền con người. Trong những năm qua, Việt Nam thường xuyên đấy mạnh các hình thức phổ cập về quyền con người như giảng dạy môn học quyền con người trong trường học, nhiều cơ quan nhà nước, nhiều tổ chức thuộc hệ thống chính trị và cơ quan khoa học đã phối hợp với các tổ chức quốc tế và quốc gia mở các khoá tập huấn về quyền con người cho các đối tượng khác nhau. Bài viết này sẽ tập trung trao đổi ngắn gọn về khái niệm quyền con người và quyền của phụ nữ và trẻ em gái [8,9].


Đầu tiên, chúng ta sẽ tìm hiểu ngắn gọn về lịch sử của khái niệm quyền con người. Nhìn chung, quyền con người là một khao khát của con người và điều này đã được nhắc đến trong những bộ luật Cổ từ thời trước công nguyên [2,4,7]. Tuy nhiên,

  1. Xét về mặt thời điểm và về khía cạnh luật pháp và tính chính thức, quyền con người được đề cập và được nhắc đến bởi nhiều triết gia trong thời kỳ ánh sáng, vào khoảng thế kỷ 17-18 ở châu Âu.
  2. Tại thời kỳ này, quyền con người được gắn với nhiều nhà triết học tiêu biểu như là: Thomas Hobbes, John Locke, Friedrich Hegel; John Stuart Mill … . Đây chính là những tác giả đã đưa ra quan điểm về quyền con người, đặc biệt là về các quyền tự nhiên và quyền pháp lý.
  3. Nhìn chung, những triết gia trong giai đoạn này đều cho rằng: Quyền con người là điều hiển nhiên mà con người sở hữu. Do đó, quyền con người hoàn toàn không phụ thuộc vào bất kỳ thể chế chính trị, nhà nước hay đảng phái nào.

Với tác phẩm Hai Luận Thuyết Về Nhà Nước vào năm 1690, John Locke đã lập luận rằng mọi cá nhân có những quyền tự nhiên đó là quyền được sống, quyền tự do và sở hữu của cải mà không một nhà nước nào có thể phủ nhận.

Điều 1 của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR) đã được Liên hiệp quốc thông qua vào năm 1948 đề cập đến các trụ cột chính của hệ thống quyền con người, ví dụ: tự do, bình đẳng và đoàn kết. Tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo cũng như tự do quan điểm và tự do biểu đạt đều được quyền con người bảo vệ. Tương tự như vậy, quyền con người cũng bảo đảm sự bình đẳng, chẳng hạn như bảo vệ quyền bình đẳng chống lại mọi hình thức phân biệt đối xử trong hưởng thụ tất cả các quyền con người, bao gồm quyền bình đẳng đầy đủ giữa nam và nữ. Sự đoàn kết thể hiện trong các quyền kinh tế và xã hội, như quyền được hưởng an ninh xã hội, được trả công, và có một mức sống đủ, quyền về sức khoẻ và tiếp cận giáo dục là một phần không thể thiếu trong khuôn khổ quyền con người [9].

Điều 1 của bản tuyên ngôn thế giới và quyền con người năm 1948 đã xác nhận rằng: “Tất cả mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và các quyền. Họ…cần đối xử với nhau trong tình bác ái” [9].


Nhìn chung, chúng ta có thể thấy rằng quyền con người chính là những yếu tố cấu thành cơ bản của nhân quyền. Ở đó, có 3 đặc điểm mà chúng ta cần chú ý đến đó là:

  1. Thứ nhất, đó là sự xác nhận chính thức rằng: Là con người tức là có nhân quyền
  2. Thứ hai, nhân quyền là của mọi người và bình đẳng trước mọi người
  3. Thứ 3, nhân quyền là những quyền bất khả xâm phạm

Rõ ràng 3 đặc điểm ở trên chính là những yếu tố cấu thành nên tính quy phạm của nhiều bộ luật tại các quốc gia. Và cho dù các quốc gia có khác nhau về mặt kinh tế, chủng tộc, văn hóa,…thì những điều trên vẫn phải được đảm bảo trên phạm vi toàn thế giới.
Ngoài ra, quyền con người thường xuyên được thảo luận trên chính trường. Ví dụ: các
chính trị gia có thể tranh luận cách cân bằng an ninh quốc gia với quyền riêng tư hoặc

Ngoài ra, quyền con người thường xuyên được thảo luận trên chính trường. Ví dụ: các chính trị gia có thể tranh luận cách cân bằng an ninh quốc gia với quyền riêng tư hoặc làm thế nào cân bằng quyền lợi sức khỏe với quyền làm việc như chúng ta thấy các Chính phủ đang làm trong đại dịch Covid-19. Hoặc quyền con người có liên quan đến doanh nghiệp vì doanh nghiệp có thể ảnh hưởng đến con người theo mặt tích cực và tiêu cực. Về mặt tích cực, doanh nghiệp tạo việc làm thỏa đáng cho người lao động, cung cấp dịch vụ có giá trị tới người tiêu dùng, và hỗ trợ dự án cộng đồng. Về mặt tiêu cực, doanh nghiệp có môi trường làm việc không an toàn, gây ô nhiễm nguồn nước mà cộng đồng lân cận đang sử dụng hoặc bán sản phẩm không an toàn [9].
Như vậy là chúng ta đã tìm hiểu về khái niệm quyền con người cũng như những đặc điểm của nhân quyền. Đến đây, xuất hiện một câu hỏi tiếp theo cần được giải đáp đó là: Đâu là những chủ đề Liên Hiệp Quốc (LHQ) quan tâm chính yếu về quyền con người?
Do quyền con người là một hệ thống giá trị có tính phổ biến toàn cầu, ở đó có sự đề cao đến tính linh thiêng của cuộc sống và nhân phẩm của con người. Do đó, những lĩnh vực mà LHQ quan tâm về quyền con người phải bao quát đến toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa,…của nhiều quốc gia trên thế giới. Và nhìn chung, có tổng cộng 12 vấn đề được quan tâm bao gồm [9]:

  1. Thứ nhất là cấm tra tấn
  2. Thứ 2 là thoát nghèo
  3. Thứ 3 là không phân biệt đối xử
  4. Thứ 4 là quyền về sức khỏe
  5. Thứ 5 là quyền của phụ nữ và trẻ em gái. Chúng ta có thể thấy rằng: quyền của phụ nữ và trẻ em gái được xem như là một trong những quyền con người cơ bản
  6. Thứ 6 là pháp quyền và xét xử công bằng
  7. Thứ 7 là tự do tôn giáo
  8. Thứ 8 là quyền được giáo dục
  9. Thứ 9 là quyền dân chủ
  10. Thứ 10 là quyền con người trong xung đột vũ trang
  11. Thứ 11 là quyền làm việc
  12. Thứ 12 là quyền tự do biểu đạt, thông tin.

Kế đến, trong 12 lĩnh vực về quyền con người như quyền bình đẳng, quyền không phân biệt đối xử, v.v, chúng ta nhận thấy có sự quan tâm lớn đến quyền của phụ nữ và trẻ em gái, những đối tượng thường bị xem là thiệt thòi ở trong nhiều xã hội.


Quyền bình đẳng của phụ nữ được ghi nhận bởi Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ năm 1979 (CEDAW). Đây là công ước quan trọng nhất thúc đẩy quyền bình đẳng của phụ nữ ở 4 khía cạnh: dân sự và chính trị; kinh tế, xã hội, văn hóa và gia đình. công ước CEDAW đã xác định 11 quyền mà người phụ nữ phải được bảo vệ trong tất cả các quốc gia [1,3,5,6], bao gồm:

Thứ nhất là quyền được giáo dục
Thứ hai là quyền được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đầy đủ, bao gồm cả dịch vụ kế hoạch hóa gia đình.
Thứ 3 là quyền được vay tiền ngân hàng và tham gia các hình thức tín dụng khác 
Thứ 4 là quyền được tham gia vào các hoạt động giải trí, thể thao và các mặt của đời sống văn hóa
Thứ 5 là quyền được quyết định số con và khoảng cách giữa các con
Thứ 6 là quyền được chia sẻ nghĩa vụ làm cha mẹ
Thứ 7 là quyền được hưởng các cơ hội làm việc như nhau cũng như những phúc lợi xã hội  và  quyền được thù lao như nhau trên cơ sở thành quả làm việc 
Thứ 8 là quyền được bảo vệ trước mọi hình thức bạo lực về thể chất, tình dục, cảm xúc, tinh thần và kinh tế
Thứ 9 là quyền được tham gia bầu cử, ứng cử và tham gia những chức vụ trong bộ máy nhà nước
Thứ 10 là quyền được đại diện chính phủ của họ ở cấp quốc tế
Thứ 11 là quyền được nhập, thay đổi hay giữ nguyên quốc tịch.


“Quyền con người của phụ nữ và trẻ em gái là một bộ phận cấu thành gắn liền và không thể tách rời của các quyền con người phổ biến”. Theo đó, tất cả những mối quan tâm của phụ nữ, trẻ em gái sẽ được lồng ghép vào các chương trình, hoạt động về quyền con người ở cấp quốc tế, khu vực và cấp quốc gia.

Thật ra, quyền của phụ nữ và trẻ em gái đã được quan tâm từ lâu, ít nhất là từ những quan điểm của các nhà triết học có quan tâm đến vấn đề nữ quyền. Bởi, khi đề cập đến những vấn đề của quyền con người, những triết gia này cũng quan tâm đến bất bình đẳng nam nữ, quyền của phụ nữ trong xã hội so với nam giới.


Và trong số nhiều những tư tưởng triết học quan tâm về con người và thân phận của con người. Quan điểm của hai nhà triết học là: Mary Wollstonecraft và John Stuart Mill đã dành sự quan tâm đặc biệt cho quyền của người phụ nữ trong xã hội.

Với tác phẩm được xem như là bản tuyên ngôn về nữ quyền đầu tiên trên thế giới vào năm 1792 là Tác phẩm, Biện minh cho quyền của phụ nữ. Wollstonecraft đưa ra hai lập luận rằng:

  1. Thứ nhất, phụ nữ là những con người. Vì vậy, chúng ta không nên từ chối các quyền cá nhân của phụ nữ vì lý do giới tính của họ.
  2. Và thứ hai, Wollstonecraft cho rằng phụ nữ ngang bằng với nam giới về mặt luật pháp, với tất cả các quyền và đặc quyền, bao gồm cả quyền được giáo dục, thu nhập và quyền sở hữu tài sản
  3. Một triết gia nổi tiếng khác cũng quan tâm đến quyền của phụ nữ đó là John Stuart Mill. Những điều này được thể hiện rõ ràng trong tác phẩm: Sự khuất phục của phụ nữ được xuất bản vào năm 1869.

Mill cho rằng phụ nữ cần được trao quyền hay tăng quyền lực và đặc quyền giống như những người đàn ông về mặt luật pháp.

Trong những quyền ấy, Mill chú ý lớn đến quyền được giáo dục và tiếp cận đến giáo dục. Chính vì lẽ đó chúng ta thấy rằng, quyền bầu cử và quyền được giáo dục toàn diện đối của phụ nữ là hai quyền cơ bản đã thúc đẩy cho việc hình thành làn sóng nữ quyền đầu tiên trên thế giới.

Tóm lại, như chúng ta đã biết quyền của phụ nữ là quyền con người. Quyền con người là tiếng nói chung của toàn nhân loại nhằm thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của mọi người.

Facebook Youtube Tiktok Zalo